Khi làm công thức về protein, chúng ta xác định hàm lượng protein thô ở mức tối thiểu cùng với 4 hoặc 5 axit amin tiêu hóa. Nhưng hiện tại chúng ta nhận ra rằng nó là không đủ.
Khi làm công thức về protein, chúng ta xác định hàm lượng protein thô ở mức tối thiểu cùng với 4 hoặc 5 axit amin tiêu hóa. Nhưng hiện tại chúng ta nhận ra rằng nó là không đủ. Nếu chỉ dựa trên những chỉ tiêu này, sẽ có thể khiến chúng ta thiếu độ chính xác trong việc thiết lập công thức. Theo Lý thuyết, chúng ta nên xây dựng công thức dựa trên 11 loại axit amin thiết yếu là lysin, methionine, methionine + cysteine, threonine, tryptophan, valine, leucine, isoleucine, arginine, histidine và phenylalanine. Nếu chúng ta không cung cấp đầy đủ mức tiêu hóa của các axit amin này cho vật nuôi thì hiệu suất sẽ bị ảnh hưởng.
Trên thực tế, chúng ta không làm công thức với phenylalanine, histidine. Một số nhà công thức thậm chí không nhìn vào leucine, isoleucine, valine hay arginine. Xem xét các axit amin này, chúng ta có nguy cơ không đáp ứng đủ nhu cầu cho vật nuôi.
Để đảm bảo một sự cung cấp đầy đủ, chúng ta có xu hướng tăng hàm lượng protein thô và nếu chúng ta cung cấp quá nhiều protein thô thì chúng ta nên xem xét tất cả 11 axit amin. Nhưng giả định như vậy có ba nhược điểm lớn:
1 - Protein thô thực tế được đo bằng cách phân tích lượng Nitơ trong khẩu phần ăn và nhân nó với 6,25. Điều này xuất phát từ giả định rằng nitơ có nguồn gốc từ protein chứa 16% nitơ. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ này thay đổi theo từng thành phần nguyên liệu tùy thuộc vào hỗn hợp axit amin của chúng. Vì thế tỷ lệ này nên là 5,7 đối với nành hoặc 6,0 đối với gạo. Sự gần đúng như vậy có thể tạo ra sự thay đổi lớn trong việc cung cấp axit amin thực tế cho bạn.
2 - Tất cả các protein không có cùng tỷ lệ axit amin, nên việc tăng hàm lượng protein thô không có nghĩa là tăng hàm lượnng của tất cả axit amin với cùng tỷ lệ.
3 - Khi bổ sung protein thô, chúng ta không chọn phần tiêu hóa. Ngược lại, khi xây dựng công thức với chi phí tối thiểu, hệ thống sẽ chọn nguồn protein thô rẻ nhất, chủ yếu là protein không tiêu hóa được.
Sự không chính xác như vậy sẽ làm giảm đáng kể hiệu suất trong chăn nuôi lợn và gia cầm và thường là nguyên nhân thường xuyên của tiêu chảy ở lợn con. Như chúng tôi đã đề cập trong một số Nutricle, peptide không hấp thụ và Protein không tiêu hóa (NDP) sẽ được sử dụng bởi hệ vi khuẩn phân giải protein ở cả ruột non và ruột già như một chất lên men và tạo ra các hợp chất độc hại và tạo ra các hợp chất độc hại.
Lysine không tiêu hóa sẽ được lên men thành cadaverine
Histidine không tiêu hóa sẽ được lên men thành histamine
Tyrosine không tiêu hóa sẽ được lên men thành indole và skatole
Methionin & Cysteine không tiêu hóa sẽ được lên men thành Hydro Sunfit
Histamine có một số chức năng sinh học bao gồm cả việc cảm ứng bài tiết clorua vào trong ruột, có thể gây ra tiêu chảy. Hydro sunfit là một loại khí độc hại và có cả tác dụng có lợi và có hại trong ruột. Nồng độ Hydro sunfit cao trong đường ruột được coi là bất lợi cho vật chủ do ảnh hưởng của nó đối với hô hấp tế bào và gây tổn thương DNA bộ gen.
Các chất chuyển hóa có nguồn gốc từ protein được hình thành bởi các vi khuẩn phân giải protein khác như clostridia cũng có thể khiến chức năng hàng rào bảo vệ bị suy yếu do thành phần chất nhầy và các mối nối chặt chẽ bị thay đổi, do đó tạo điều kiện cơ hội thuận lợi cho vi khuẩn đường ruột xâm nhập.
Ngoài việc sản xuất các hợp chất độc hại, quá trình lên men phân giải protein kích hoạt sự phát triển của vi khuẩn phân giải protein được coi là có hại cho vật chủ (E.Coli, Streptococcus, Clostridium).
Các cơ chế này là lý do tại sao chúng ta thường giới hạn việc bổ sung bã nành ở mức tối đa 10% trong khẩu phần ăn prestarter và chỉ 20% cho khẩu phần starter.
Để hạn chế các quá trình lên men protein, chúng ta nên tinh vi hơn trong cách tiếp cận công thức protein
1 - Chúng ta nên làm công thức dựa trên càng nhiều axit amin tiêu hóa càng tốt bao gồm valine, arginine, leucine và isoleucine. Các tài liệu hiện nay cung cấp thông tin chính xác về các axit amin tiêu hóa trong từng thành phần nguyên liệu. Chúng ta cũng biết khá rõ nhu cầu của 9 axit amin hạn chế nhất cho mỗi giai đoạn của vật nuôi.
2 – Chúng ta nên bỏ cài đặt tối thiểu cho protein thô và thay vào đó là tối thiểu DP (Protein tiêu hóa) và tối đa NDP để hạn chế quá trình lên men protein. Bằng cách đó, chúng ta sẽ hạn chế việc kết hợp nguyên liệu tự nhiên và ưu tiên cho các axit amin tổng hợp không chứa NDP. Phần axit amin tổng hợp thường chỉ được tính dựa trên chi phí của nó. Nhưng một khi bạn bắt đầu sử dụng NDP, các axit amin tổng hợp sẽ được ưu tiên với tác động tích cực đến sức khỏe đường ruột.
Bạn cần phải hợp lý về hàm lượng NDP tối đa mà bạn sẽ cài đặt. Chúng ta không nên yêu cầu phần mềm xây dựng một yêu cầu mà nó không thể nhận ra. Vẫn chưa có leucine và isoleucine tổng hợp trên thị trường và phần mềm vẫn sẽ cần phải lấy từ các nguyên liệu tự nhiên để đáp ứng nhu cầu về các axit amin này và một phần NDP của chúng sẽ đi kèm theo.
3 - Protease giúp giảm phần NDP trong các nguyên liệu. Một số protease hiện có sẵn trên thị trường cho Lợn và Gia cầm với nhiều năm thành công. Đừng ngần ngại hỏi chúng tôi thêm thông tin về protease này.
4- Tăng hàm lượng chất xơ tan và không tan khẩu phần. Bằng cách đó, bạn sẽ nuôi dưỡng và thúc đẩy sự phát triển của vi khuẩn phân giải chất xơ để cạnh tranh với hệ thực vật phân giải protein trong ruột. Một số nghiên cứu (Zentek, 2015 - Tạp chí Dinh dưỡng Anh) cho thấy rõ rằng hàm lượng CP cao hơn sẽ làm tăng sản xuất amoniac và putrescine trong khi việc tăng chất xơ lại làm giảm các hàm lượng này.
Trong những năm qua, quá trình lên men protein gây ra bệnh tiêu chảy và phân ướt được kiểm soát bởi kháng sinh kích thích tăng trưởng (AGP). Hiện nay, AGP đang ngày càng bị hạn chế sử dụng thì việc khẩn cấp tìm kiếm các chiến lược kiểm soát quá trình lên men protein là rất cấp bách. Việc thay đổi chiến lược như vậy yêu cầu bạn phải nâng cấp ma trận nguyên liệu của mình cả về DP (Protein tiêu hóa), NDP (Protein không tiêu hóa) và TDF (Chất xơ tổng hợp).
Nguồn: Nutrispices