Bệnh viêm gan vịt là bệnh truyền nhiễm cấp tính lây lan mạnh gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi thủy cầm, nhất là ở vịt con dưới 3 tuần tuổi.
Nguyên nhân
Viêm gan virus là bệnh cấp tính, gây chết cao cho vịt, ngan, gà tây, gà sao, ngỗng và chim trĩ. Tại Việt Nam, bệnh do virus thuộc nhóm Picornavirus gây nên. Bệnh thường xảy ra ở vịt < 6 tuần tuổi, đặc biệt là vịt 1 - 3 tuần tuổi với tỷ lệ chết cao và lây lan rất nhanh. Virus xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc đường tiêu hóa, hô hấp hoặc vết thương rồi vào máu. Virus theo máu đến các cơ quan phủ tạng đặc biệt là gan, đây là cơ quan thích hợp nhất đối với virus. Quá trình bệnh lý được biểu hiện qua hai giai đoạn:
Ở giai đoạn đầu, virus gây rối loạn trao đổi chất ở gan, do quá trình trao đổi mỡ ở gan và đặc biệt là quá trình trao đổi cholesterol bị đình trệ làm cho lượng glycogen trong gan giảm thấp nhưng lượng lipit lại tăng cao. Vì vậy, vịt con ở thời kỳ cuối của bào thai thiếu năng lượng dẫn đến sức đề kháng của chúng bị giảm sút.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn virus trực tiếp phá hoại tế bào gan, tế bào nội mô huyết quản, gây ra xuất huyết đặc trưng. Virus sinh sản trong tế bào gan, nhất là tế bào thuộc mạng lưới hệ võng mạc nội mô như tế bào Kuffer. Khi kiểm tra thấy tổ chức gan bị phá hoại, cơ thể không được giải độc làm con vật chết do ngộ độc.
Triệu chứng
Bệnh xảy ra rất nhanh, tỷ lệ mắc bệnh trong đàn là 100%, vịt chết tập trung chủ yếu từ 3 - 4 ngày và tỷ lệ chết thay đổi tùy theo độ tuổi. Khi vịt nhỏ hơn 1 tuần tuổi, tỷ lệ chết có thể đến 95%, khi vịt từ 1- 3 tuần tuổi tỷ lệ chết có thể đến 50% hoặc ít hơn, vịt 4 - 5 tuần tuổi tỷ lệ bệnh và chết không đáng kể.
Bệnh viêm gan vịt có thời gian nung bệnh từ 2 - 4 ngày, bệnh thường xảy ra đột ngột, lúc đầu chỉ thấy vài con sau đó bệnh xảy ra ồ ạt, vịt ít vận động, buồn ngủ, bỏ ăn, sã cánh, một số bị tiêu chảy, sau một vài giờ niêm mạc miệng xanh tím, vịt bị co giật, nằm la liệt, nghiêng sườn hoặc nằm ngửa, chân duỗi thẳng, đầu ngoẹo sang sườn hoặc lên lưng (tư thế chết đặc trưng gọi là nghiêng). Vịt co giật chết nhanh có khi chỉ 2 - 3 giờ kể từ khi phát bệnh, một số trường hợp vịt chết mà không có triệu chứng rõ rệt.
Chẩn đoán phân biệt
Bệnh dịch tả vịt (Duck plague): Bệnh dịch tả vịt thường xảy ra ở mọi lứa tuổi với các triệu chứng điển hình như: sưng đầu, sưng mắt, liệt chân, liệt cánh, tiêu chảy phân trắng, tốc độ vịt chết chậm hơn. Mổ khám thấy hiện tượng viêm loét xuất huyết đường ruột. Virus dịch tả rất mẫn cảm với chloroform, trong khi đó viêm gan vịt kháng chloroform.
Biện pháp phòng trị
Khi dịch bệnh chưa xảy ra: Biện pháp quản lý, đặc biệt là biện pháp an toàn sinh học đóng vai trò quan trọng: kiểm soát nhập đàn, hạn chế nguy cơ mang mầm bệnh từ bên ngoài vào trại thông qua các phương tiện trung gian và thực hiện tốt vệ sinh và sát trùng chuồng trại. Không nhập vịt con từ vùng có bệnh lưu hành thường xuyên. Đảm bảo thức ăn, nước uống sạch sẽ, vịt được sống trong điều kiện tối ưu nhất. Ngoài ra, tiêm phòng vaccine như là một biện pháp hỗ trợ nhưng là biện pháp chủ động và hiệu quả nhất. Có 2 loại vaccine viêm gan vịt: Vaccine sống sử dụng cho vịt con và vaccine chết dùng cho vịt đẻ để truyền kháng thể thụ động giúp vịt con bảo hộ 2 - 3 tuần đầu tiên sau khi ấp nở.
Tiêm vaccine để phòng bệnh viêm gan cho ngan, vịt.
Khi dịch bệnh xảy ra: Thực hiện cách ly, tiêu độc và sát trùng chuồng trại (BENCOCID, NAVETKON-S, NAVET-IODINE), dùng các chế phẩm Vitamin C (NAVET-VITAMIN C ANTISTRESS) nhằm tăng cường sức đề kháng, cung cấp các chất cung năng lượng giải độc (GLUCOSE) và các chất điện giải (VITA-ELECTROLYTES). Tiêm ngay kháng thể viêm gan vịt với liều 1 - 1,5 ml/con.
Sử dụng một trong các kháng sinh sau:
- Trị khẹc vịt: 20 g/100 kgP, dùng 3 - 4 ngày sẽ khỏi.
- Colivinavet: 10 g thuốc dùng cho 30 - 40 kgP/ngày.
- Antidiarrhoea: 1 gói 10 g cho 50 kg thể trọng gia cầm.
- Gentatylodex oral: 1 g/5 kgP/ngày tương đương 1 g/lít nước hoặc 1 g/0,5 kg thức ăn.
- Ampicoli fort: Gói 50/200 kgP/ngày.
- Vina colidox: 0,5 - 1 g/1 lít nước/ ngày pha trong nước uống, tương đương với 1 - 2 g/10 kgP/ngày trộn vào thức ăn.
Bổ trợ, tăng sức đề kháng, tăng cường trao đổi chất bằng một trong các thuốc sau: B.complex for oral: Một gói 100 g thuốc pha với 300 lít nước hoặc trộn với 100 kg thức ăn hỗn hợp; Vinamix 200: 1 g/1 lít nước/ngày dùng liên tục trong 10 ngày hoặc cả quá trình nuôi; Stress-bran: 1 g thuốc pha trong 2 lít nước, thuốc dùng liên tục trong 4 - 5 ngày.
Vì bệnh diễn tiến rất nhanh nên khi phát hiện bệnh sớm, để điều trị hiệu quả bệnh viêm gan vịt có thể sử dụng các chế phẩm kháng huyết thanh hoặc kháng thể lòng đỏ có chất lượng cao, đặc hiệu kháng với các loại virus đang gây bệnh tại Việt Nam. Đây là bệnh do virus gây ra nên không điều trị được bệnh, để làm giảm thiệt hại do bệnh gây ra có thể tiến hành một số biện pháp sau: Phát hiện bệnh sớm, can thiệp bằng cách tiêm huyết thanh miễn dịch hay kháng thể viêm gan vịt chế từ lòng đỏ trứng cho vịt.
Theo tapchigiacam